Không xây dựng trên nền tảng của người khác
Không xây dựng trên nền tảng của người khác
Rô-ma 15:20-21『Vậy nên tôi đã cố gắng rao giảng phúc âm, không phải ở nơi nào danh Đấng Christ được rao giảng, kẻo tôi xây dựng trên nền tảng của người khác:. Nhưng như có chép rằng: Những kẻ chưa được nói đến, thì sẽ thấy; và những kẻ chưa nghe, thì sẽ hiểu.』
Đây là một cách diễn đạt mạnh mẽ rằng phúc âm sẽ được rao giảng ở nơi mà phúc âm của Đấng Christ chưa được rao giảng trước đó. Nhìn vào phần đầu của câu 20
trong chương 15
trong Kinh thánh Hy Lạp, đó là 『Philotimumenon Euangelizesdai Ukh Hopu Onomasthe
Christosφιλοτιμούμενον εὐαγγελίζεσθαι οὐχ ὅπου ὠνομάσθη Χριστός』, có nghĩa là việc rao giảng phúc âm ở nơi mà danh của Đấng Christ chưa được gọi đến là một vinh dự.
Phao-lô đã viết một lá thư cho hội thánh La Mã về phúc âm, không phải để dạy những giáo lý mới mà các tín đồ chưa biết, mà để nhắc nhở họ về phúc âm mà họ đã biết. Ông muốn các tín đồ áp dụng kiến thức họ biết vào cuộc sống và đứng vững, và ông làm chứng rằng việc viết thư là một ân điển mà Chúa ban cho
ông.
Phao-lô đã gặp Chúa phục sinh trên đường đến Đa-mách để bắt giữ các Cơ đốc nhân và đưa họ đến Giê-ru-sa-lem
theo lệnh của thầy tế lễ thượng phẩm. Sau khi gặp Chúa phục sinh, Phao-lô sống như một sứ đồ cho Dân ngoại. Chức vụ tông đồ mà Chúa phục sinh đích thân giao phó cho Phao-lô không chỉ là chức vụ truyền bá phúc âm cho Dân ngoại, mà còn là chức vụ có bản chất của thầy tế lễ. Chức vụ thầy tế lễ bao gồm hành động dâng hiến như một sứ giả cứu rỗi, cầu nguyện không ngừng cho tất cả các hội thánh và truyền bá phúc âm.
Phao-lô mô tả những Người ngoại đã trở thành anh em qua phúc âm như một của lễ dâng lên Chúa, tức là một của lễ thuộc linh. Phao-lô không chỉ được giao sứ mệnh rao giảng phúc âm cho Dân ngoại, mà đúng hơn là khiến Dân ngoại tuân theo phúc âm và do đó trở thành của lễ được Chúa chấp nhận. Phao-lô làm chứng rằng công việc của Đức Chúa Trời là ông trở thành tôi tớ của Đấng Christ cho Dân Ngoại và phục vụ như một thầy tế lễ của phúc âm của Đức Chúa Trời.
Phao-lô truyền bá phúc âm rộng rãi từ Giê-ru-sa-lem đến I-ly-ri-cô. Sau khi Phao-lô rao giảng phúc âm và thành lập các hội thánh ở các thành phố lớn, ông giao
phó các hội thánh cho những người cải đạo tại địa phương và bảo họ tiếp tục rao giảng phúc âm cho các khu vực xung quanh. Phao-lô rao giảng phúc âm ở nơi mà những người khác chưa từng đến và nơi mà danh Đấng Christ chưa được gọi đến. Nguyên tắc mà ông đặt ra là nguyên tắc mà ông rút ra từ mong muốn rao giảng danh Đấng Christ đến những nơi mà phúc âm chưa được chứng kiến càng sớm càng tốt, thay vì làm công việc kép là đến những nơi mà phúc âm đã được rao giảng và rao giảng phúc âm một lần nữa. Phúc âm là tin tốt lành.
Phúc âm mà Phao-lô rao giảng là kết quả của những lời tiên tri của Ê-sai về tin tốt lành. Ê-sai
52:15 "Vì vậy, Ngài sẽ rảy nước cho nhiều nước; các vua sẽ ngậm miệng trước mặt Ngài: vì họ sẽ thấy những điều chưa từng được nói cho họ; và họ sẽ suy ngẫm những điều họ chưa từng nghe."
Khi Abraham được 99 tuổi, Sarah và Abraham không có con. Và không có khả năng sinh thêm con nữa. Tuy nhiên, Chúa đã ban cho họ một người con trai, Isaac. Chúa, người tạo nên lịch sử mới ngay cả trong những tình huống dường như không thể, đã hứa sẽ khôi phục lại dân Judah, mặc dù họ đã bị bắt làm phu tù ở Babylon.
Chúa bảo Jerusalem hãy tỉnh thức. Nếu cuộc sống của bạn cho đến bây giờ giống như loạng choạng khi say rượu, thì từ bây giờ, hãy sống với một tâm trí sáng suốt. Giống như khi bạn say rượu, bạn không nhận ra đúng những gì mình đang nói hoặc làm, nếu bạn đã uống chén thờ thần tượng và sống như một người ngoại quốc, và đã đi hết chặng đường đến Babylon mà không biết mình đang đi đâu, thì bây giờ Chúa đã cất chén thịnh nộ đi, chúng ta hãy trở về Zion với một tâm trí sáng suốt. Chúa nói.
Mặc dù họ không phục vụ Chúa như Chúa, nhưng lại thờ thần tượng và theo các phong tục của Dân ngoại, và vì tội lỗi của họ quá tràn lan, quốc gia của họ đã bị hủy diệt và họ bị bắt làm phu tù ở Babylon, Chúa đã gọi Jerusalem là thành thánh và không từ bỏ họ.
Chúa bảo dân sự của Ngài phải mạnh mẽ và mặc quần áo đẹp. Đây là lời yêu cầu phải mạnh mẽ cho một khởi đầu mới. Họ bị đưa đến Babylon như những con vật và như những tù nhân và bị bắt làm việc, nhưng giờ đây họ đã nhận được hình phạt đầy đủ.
Sự kiện Israel bị đưa đến Babylon được diễn đạt như một giao dịch. Nói cách khác, Đức Chúa Trời là chủ sở hữu trước đã bán Israel, Israel là món đồ bị bán, và Babylon là chủ sở hữu mới đã mua Israel.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ lấy lại Israel đã bị bán. Nếu họ bị bán để lấy tiền, thì họ phải được lấy lại để lấy tiền, nhưng vì họ bị bán mà không được gì, nên họ sẽ được chuộc mà không cần tiền. Điều này cho thấy việc Israel bị đưa đến Babylon là hình phạt của Đức Chúa Trời.
Theo cách này, Đức Chúa Trời hứa rằng mặc dù dân sự Ngài bị bắt làm phu tù ở Babylon, Ngài vẫn yêu thương họ và chắc chắn sẽ đưa họ trở về. Đây là tin tốt lành. Tin tốt lành là tin tức rằng Israel sẽ trở về từ Babylon đến Jerusalem. Nhưng cuối cùng, tin tốt lành là tin tức về sự ra đời của Chúa Jesus Christ. Tin tức đó là tin tức về hòa bình, tin tốt lành và tin tức công bố sự cứu rỗi.
Khi Đức Chúa Trời đưa con cái Israel ra
khỏi Ai Cập và dẫn họ đến Canaan, Ngài đã rẽ nước Biển Đỏ. Đây là điều không ai từng tưởng tượng ra. Ngài đã nuôi họ bằng manna trong suốt 40 năm trong sa mạc. Ngài cũng đã ngăn chặn dòng nước tràn bờ của Sông Jordan khi họ tiến vào đất Ca-na-an. Ngài cũng khiến các bức tường của Giê-ri-cô sụp đổ với tiếng gầm rú. Tất cả những điều này đều là công trình của Đức Chúa Trời mà con người chưa bao giờ tưởng tượng ra. Sự trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lôn, có thể được gọi là Cuộc Xuất Hành thứ hai, cũng đã được thực hiện theo cách mà con người chưa bao giờ tưởng tượng ra, nhưng bài ca của người hầu này báo trước về Chúa Giê-su Christ, người sẽ đến trái đất này 700 năm sau. Chúng ta sẽ xem xét Đấng Christ sắp đến này trong sứ điệp ngày mai.
Nhà tiên tri Ê-sai đã tiên tri về sự kiện sẽ xảy ra khoảng 160 năm sau, khi dân sự của Đức Chúa Trời sẽ trở về từ Ba-by-lôn, và lý do dân Giu-đa phải đến Ba-by-lôn là vì họ không kính sợ Đức Chúa Trời cai trị. Chỉ ở Ba-by-lôn, họ mới có thể hoàn toàn thừa nhận Đức Chúa Trời và sự cai trị của Ngài.
Phao-lô trích dẫn lời của nhà tiên tri Ê-sai, nói với các thánh đồ của hội thánh ở Rô-ma rằng phúc âm là về việc được giải cứu khỏi thế gian để đến vương quốc của Đức Chúa Trời. Ông nhắc nhở họ về sự trở về quê hương của họ, Giê-ru-sa-lem,
sau khi bị đưa đến Ba-by-lôn. Ông ví việc sống trên thế gian này với việc dân Israel bị đưa đến Babylon, và cái chết của Chúa Jesus trên thập tự giá là sự chuộc tội cho những việc làm sai trái trong quá khứ của họ. Những ai chết cùng Chúa Jesus thì đã chết đối với tội lỗi. Và ông nói với họ rằng được phục sinh cùng Chúa Kitô cũng giống như trở về Jerusalem.
Ngay cả ngày nay, sự cứu rỗi không chỉ đơn thuần là được tha thứ tội lỗi, mà là trở về quá khứ. Đây là sự phục sinh. Phục sinh là trở về quá khứ về mặt tâm linh. Đây là một từ cho chúng ta biết rằng các thiên thần ác đã đến thế gian trong xác thịt, nhưng chúng phải ăn năn và được phục sinh về mặt tâm linh trong Chúa Kitô giống như Chúa Kitô đã được phục sinh từ cõi chết và trở về vương quốc của Chúa.
Nhận xét
Đăng nhận xét